"... Bấy giờ cả bọn có bốn năm anh, đều là con trai xóm Duối, ngồi bên một mảnh chiếu rải ở giữa căn nhà Hời, bên gốc cau, chỗ khoáng đãng nhất, để trăng sáng chiếu xuống đầy đủ cho tất cả mọi người. Ai cũng chỉ muốn ngồi chỗ nào mà nhòm được lên mặt trăng. Và cũng bởi có trăng sáng, những anh con trai xóm Duối sau khi dệt đoạn hai cuốn cửi, tuy trời đã khuya, mà vẫn chưa ai buồn đi ngủ. Họ kéo đến sân nhà Hời, ngồi chơi vui, nói chuyện gẫu. Ở đây rộng rãi và thoáng mát. Nhà lại vắng vẻ, chỉ có một mình Hời ở với bà mẹ già, bởi kém mắt bà cụ có cái lệ bao giờ cũng đi ngủ từ chập tối. Bọn con trai tha hồ ngồi hát xướng và nói những chuyện sở thích nhảm nhí." - trích từ tác phẩm Quê Người.
Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm: tiểu thuyết Quê Người, tiểu thuyết Mười năm, tiểu thuyết Quê Nhà. Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất định.Câu chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng tây bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 (1996).
Được viết sớm nhất là Quê Người (1941) - cuốn tiểu thuyết đầu tay của Tô Hoài. Cảm hứng phong tục của tác phẩm rất rõ. Đó cũng là khuynh hướng nổi trội của tiểu thuyết hiện thực ở nước ta từ khoảng 1939, 1940 đến 1945: thời kỳ Ngô Tất Tố viết Lều chõng (1939), Việc làng (1940), Nguyễn Công Hoan viết Cái thủ lợn (1939), Mạnh Phú Tư viết Làm lẽ (1939), Sống nhờ (1942), Nguyễn Đình Lạp viết Ngoại ô (1941), Ngõ hẻm (1943), Bùi Hiển viết Nằm vạ, Ma đậu (1941) và chính Tô Hoài viết một loạt truyện ngắn phong tục: Vợ chồng trẻ con, Ông Cúm bà Co, Khách nợ…
Đọc Quê Người, người ta thấy viết về phong tục quả là một sở trường của Tô Hoài. Tác phẩm vẽ ra một bức tranh phong tục hết sức phong phú của một vùng nông thôn ngoại thành Hà Nội ngày xưa: những hội hè đình đánh với các trò vui: hát chèo, hát xẩm, leo cột mỡ, đi cầu noi; những cách trai gái hẹn hò, họ gửi cho nhau những bức thư tình văn chương hoa mỹ mùi mẫn một cách rất quê mùa; những lối ăn mặc, trang điểm của người dân quê trong các dịp lễ Tết, cưới xin...; tục tảo hôn, chuyện đồng cốt, những cách chữa bệnh kỳ quái, thói nằm vạ, thói đặt vè bới xấu nhau, cảnh những người đàn bà đanh đá đi khắp làng chửi rủa có ngành có ngọn, có bài có bản; cảnh bắt nợ, trốn nợ đêm ba mươi Tết.v.v... Tất cả được quan sát rất tỉ mỉ và diễn tả rất sinh động, hóm hỉnh.
Giới thiệu tác giả:
Tô Hoài, tên khai sinh là Nguyễn Sen (27/9/1920 - 6/7/2014). Năm 1943, ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu văn học quan trọng như Truyện Tây Bắc.
Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.
Các giải thưởng:
Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam 1956 (Truyện Tây Bắc)
Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970 (tiểu thuyết Quê Nhà)
Giải thưởng của Hội Nhà văn Á - Phi năm 1970 (tiểu thuyết Miền Tây)
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996)
Giải Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội 2010
Tác giả | Tô Hoài |
Nhà xuất bản | Hội Nhà văn |
Đơn vị phát hành | Phương Nam Book |
Năm xuất bản | 2007 |